Hoàng đế nội kinh 76 - 81
Ngày : 10-12-2015 Lượt xem : 4797
Can hư, Thận hư, Tỳ hư… Đều khiến con người thân thể nặng nề khó chịu. Nên dùng độc dược, thích và cứu hoặc dùng biêm thách, hoặc dùng thanh dịch v.v… Vậy mà có khi khỏi, có khi không khỏi, là vì sao? [1]
Tỳ mạch hư mà phù, tựa phế; Thận mạch tiểu và phù tựa Tỳ; Can mạch cấp và trầm tựa Thận… Đó đều là những mạch chứng mà y giả dễ nhầm. Chỉ có “thung dung” nhận kỹ, mới có thể biết được. Đến như ba Tàng thổ, mộc, thủy cùng ở bộ phận dưới, có gì mà không phân biệt được. [2]
Mạch phù mà Huyền, đó là bởi Thận bất túc; Trầm mà thạch, là do Thận khí bị ngừng mắc ở bên trong; bệnh nhân khiếp nhược, thiểu khí… là do thủy đạo không thông lợi, khiến cho hình khí bị tiêu thước; khái khấu và phiền oan, là do Thận khí nghịch lên. Đó là khí ở một người, và bệnh chỉ phạm vào một Tàng. [4]
Giờ đây có người, tứ chi rã rời, khái huyết tiết… Ngu này nhận là thương Phế, thiết mạch thấy phù, đại mà khẩn… Ngu không dám chữa. Thô công dũng biêm thạch mà khỏi bớt; lại làm cho xuất huyết, huyết ra được mà mình thấy nhẹ nhàng… Vậy là bệnh gì? [5]
Mạch phù, đại và hư là do Tỳ khí tuyệt ở bên ngoài, bỏ Vị phủ, trở ra kinh của Dương minh. Vì hai hỏa không thể thắng được ba thủy, vì vậy nên mạch loạn mà không thường. Tứ chi rã rời là do tinh khí của Tỳ không đạt ra tới tứ chi; suyễn và khái, là do thủy khí dồn lên Dương minh; huyết tuyết, là do mạch cấp, huyết không dẫn hành được. Như đoán là thương Phế, thời nhằm lắm. [6]
Nếu là thủy tà dương Phế thời do Tỳ khí không giữ; Vị khí không thanh; Kinh khí không sai khiến được; chân tàng hoại quyết, kinh mạch bàng tuyệt, năm Tàng lậu tiết, không nục thời ẩu. Vậy đối với chứng hậu trên kia, khác hẳn. [7]
Phàm trước khi chẩn mạch, nên hỏi có phải là trước quí mà sau hèn? Nếu vậy, thời dù không trúng tà, bệnh do trong sinh ra. Bệnh đó gọi là Thoát doanh. Nếu trước giàu mà sau nghèo… Bệnh đó gọi là Thất tinh. Năm khí lưu niên, bệnh nó dồn lại. Y công chẩn bệnh, không biết bệnh danh. Đó là một lỗi. [1]
Phàm muốn chẩn bệnh, phải hỏi sự uống, ăn, cư xử, bạo lạc hay bạo khổ, trước xướng sau khổ, những trường hợp đó đều làm thương tinh khí; tinh khí kiệt tuyệt, khiến cho hình thể rã rời. Bạo nộ thời dương Aâm, bạo hỷ thời thương Dương, quyết khí thượng hành, mạch mãn thời hình khứ. Ngự y chẩn bệnh, không biết như vậy. Đó là hai lỗi. [2]
Phàm chẩn bệnh, phải biết so sánh những bệnh Kỳ hằng, biết được là giỏi. Bệnh đó không biết, sao được là biết chẩn. Đó là ba lỗi. [3]
Chẩn bệnh phải chú ý vào “tam thường” (tức là tinh, khí, thần). Vậy phải hỏi trước quí sau tiện? Hoặc mới bị thất phế, bị nguy nan? Nếu bị những trường hợp như vậy, thời tinh thần sẽ bị thương; dù không phạm phải tà khí, cũng tất sinh ra bì tiêu, cân khuất, khó lòng sinh tồn. Y giả không xét ở chỗ đó mà chữa liều, đó là bốn lỗi. [4]
Phàm chẩn bệnh lại phải biết khí huyết suy vượng như thế nào. Như người đương giàu có mà bị sa sút, thời thần hồn bị thương. Vì đó, chủ của Tâm là Mạch, chủ của Can là Cân, như bị cắt đứt… Vậy phải tìm ở nguyên nhân chứng hậu để điều trị. Nếu bỏ lỡ, đó là năm lỗi. [5]
Cho nên nói rằng: thánh nhân trị bệnh, phải biết rõ lẽ Aâm Dương của trời đất, sự kinh hỷ của bốn mùa… Rồi do đó mà hoặc dùng châm, cứu, biêm thạch và độc dược; lại phải biết rõ bản thủy của bệnh mà tham xét với “bát chính, cửu hậu…” Thời bệnh không còn đâu xót được nữa(1). [6]
Kinh mạch mười hai, Lạc mạch ba trăm sáu mươi lăm… Những cái đó, phần nhiều mọi người điều hiểu và các Y giả cũng đều biết tuân theo. Nhưng sở dĩ trị liệu vẫn không được mười vẹn mười, chỉ vì tinh thần không chuyên, chí ý không vững, khiến cho trong ngoài lẫn lộn, mới gây nên tai vạ. [1]
Chưa hiểu thấu những nghĩa sâu xa của thầy dạy, mà đã dùng liều biêm thạch, châm cứu… Khiến cho mang hận về sau. Đó là hai điều lỗi. [3]
Không xét rõ là sang hay hèn, giàu hay nghèo, thân thể ấm hay lạnh, uống ăn đủ hay thiếu, tính người dũng hay khiếp… Các điều đó đều có thể là nguyên nhân của bệnh cả. Thế mà Y giả lại không biết, đó là ba điều lỗi. [4]
Chẩn bệnh không biết hỏi đến các nguyên nhân như vừa thuật trên, chỉ nhắm mắt án tay ngay vào Thốn khẩu, rồi nói hươu, nói vượn, dối người, dối mình. Đó là bốn điều lỗi. [5]
Tam dương là Biểu, Nhị âm là Lý, Nhất Aâm là chí tuyệt (cuối cùng), hợp với hối sóc, sẽ đầy đủ cái chính lý về sự sinh trưởng (1). [2]
Phàm gọi là Nhị dương, tức là Dương minh. Mạch đến Thủ Thái âm, Huyền mà Trầm, Cấp, không Cổ, vì nhiệt phát bệnh, sẽ chết (1). [4]
Nhất dương là Thiếu dương. Mạch đến Thủ Thái âm, trên liền với Nhân nghinh, Huyền, Cấp không dứt… Đó là bệnh ở Thiếu dương. Chuyển về âm thời chết (2). [5]
Tam âm là một cơ quan chủa của sáu Kinh. Nó giao với Thái dương, nếu mạch phụ, (Cổ), không phù thế là không liên lạc được với Tâm và Thận. [6]
Sáu mạch đó, lúc là Aâm, lúc là Dương, thay đổi giao hỗ với nhau, thông với năm Tàng, hợp với Aâm Dương, đến trước là chủ, đến sau là khách. [9]
Tam dương, Nhất âm; Thái dương mạch thắng, Nhất âm không thể ngăn, bên trong làm rối loạn năm Tàng, bên ngoài hiện ra chứng kinh, hãi (1). [11]
Nhị âm, Nhất dương; bệnh sinh ra bởi Thận. Aâm khí dẫn lên phía dưới Tâm Quản; Không khiếu vít lấp không thông, tứ chi rã rời (1). [14]
Nhất âm, Nhất dương mạch Đại, thế là Aâm khí đến Tâm, trên dưới không thường, ra vào không biết, cổ họng khô ráo. Bệnh tại Tỳ thổ (2). [15]
Nhị dương, Tam âm, đều có cả chí âm. Aâm không tới được với Dương, Dương không tới được với Aâm. Aâm, Dương đều tuyệt, Phù là huyết giả, Trầm là ung nùng. [16]
Dương theo tả, Aâm theo hữu lão theo trên, thiếu theo dưới. Vì vậy, Xuân hạ theo về Dương đời sống, theo về Thu Đông thời chết. Trái lại, thời nào theo về Thu Đông là sống. Vì vậy, khí dù nhiều ít mà nghịch, đều thành chứng quyết (1). [2]
Phế khí hư, thời khiến người mộng thấy bạch vật (các vật trắng, thuộc loài kim), thấy chém người máu chảy, nếu đắc thời, thời mộng thấy binh chiến (1). [4]
Đó là thuộc về năm Tàng khí hư, Dương khí hưu dư, Aâm khí bất túc. Vậy hợp với năm chẩn, điều với Aâm Dương, để xét về Kinh mạch (1). [9]
Vì vậy, chẩn co đại phương (phép lớn). Ngồi đứng có thường, ra vào có lối, để giúp ích cho thần minh; phải rất thanh tĩnh, xem suốt trên dưới, coi ở bát chính, xét năm trung bộ, án mạch động tĩnh; theo riêt để nhân về Hoạt, Sắc, Hàn, Oân; đạo có xét rõ mới được dài lâu. Và tới được cõi mười vẹn cả mười (thập toàn) (1). [10]
Tâm là chuyên tinh của năm Tàng. Nó khai khiếu lên mắt, hiện ra săc là phần tươi tốt của Tâm. Vì vậy, phàm người có đức, thời khí hoà hiện ra mắt; có việc lo buồn thời rầu rĩ tỏ ra sắc. [2]
Vì vậy, bi ai thời “Khấp hạ” (khóc có lệ rơi). Khấp hạ là do Thủy sinh. Thủy do tông mạch; tích thủy tưc là chí âm. Chi âm là tinh của Thận. Sở dĩ lệ không rơi, là do tinh nó cũng giằng co, nên Thủy không xuất được. (1). [3]
Nghĩ như: tinh của Thủy là chí, tinh của Hỏa là thần; Thủy hỏa tương cảm, thần chí đều bi, do đó Thủy mới từ trong mắt chảy ra. Cho nên “ngạn” có nói “tâm bi”, gọi là “chí bi”. Vì chí với tâm tinh, đều dồn lên mắt. [4]
“Thế” phát sinh ra tự Não (óc). Não thuộc Aâm; Tủy, là một chất làm cho đầy ở trong xương. Não thấm (rích) ra thành Phế. Chí là chủ của xương. Vì vậy, Thủy chảy mà Thế theo, là nó theo về đồng loại. [6]
“Thế” với “khấp” (tức lệ) ví như anh với em, nếu mạch “Cấp” thời đều chết, nếu sống thời đều sống. Nếu chí mà sớm bi, thời “Thế” và “Khấp” sẽ đồng thời đằm đìa (1). [7]
Khấp mà lệ không ra, là do khốc mà không thật bi. Không khấp là do thần không bi; thần không bi thời chí không bi. Aâm Dương cũng giằng co nhau, khấp (lệ) sao ra một mình được. Đại phàm, về chí mà bị, thời uất uất khí xung âm, xung âm thời chí rời khỏi mắt; chí đã rời thời thần không giữ tinh. Tinh thần rời khỏi mắt, thời “thế” và khấp” đồng thời ra (2). [9]
Lôi Công không nhớ ở Kinh (Linh Khu) dạy ư? Phàm chứng Quyết, thời mắt không còn trong thấy. Vì người mắt chứng Quyết, thời Dương khí dồn lên trên, Aâm khí dồn xuống dưới. Dương khí dồn lên trên thời hỏa sáng một mình; Aâm khí dồn xuống dưới thời chân lạnh và bụng trướng, xem đó thời biết “một thủy” không thắng được “năm hỏa”, cho nên thành mục manh (1). [10]
Vì vậy, ra gió thời lệ rơi. Bởi gió nó thổi vào mắt khiến cho Dương khí không giữ với tinh, một mình Dương hỏa thiêu vào mắt, nên mới lệ rơi (1). [11]