Y học hiện đại
LỊCH SỬ Y HỌC HIỆN ĐẠI
Ngày : 10-12-2015 Lượt xem : 3432
LỊCH SỬ CỦA Y HỌC HIỆN ĐẠI
Y học hiện đại là môn khoa học nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học tiên tiến vào việc phòng chữa bệnh.
Y học hiện đại xuất hiện từ các nước châu Âu như Đức, pháp, Anh, Thụy sỹ. Về mặt biên niên sử thì Hiện đại có nghĩa là hiện nay, mốc thời điểm từ năm 1914, nhưng xét về thuộc tính ứng dụng thàng tựu khoa học tiến tiến vào việc phòng chữa bệnh thì thời điểm xuất phát phải là những năm 1540, khi Paraselse khai trương ngành hóa dược hay còn gọi là y hóa học ( Me1dicine Spagyriquye ). Thời kỳ này xuất hiện cuốn giải phẫu cơ thể người của nhà giải phẫu học người Pháp - André Vasale ( 1514 – 1564 ). Từ những năm này người ta bắt đầu chiết xuất những chất chữa bệnh từ thảo dược.
Tới thế kỷ XVII, William Haruey người Anh ( 1578 – 1657 ) tìm ra tuần hoàn máu, Y học hiện đại chỉ thực sự phát triển từ khi người thợ kính Hà Lan Hans Lippershey, Zacharias Janssen chế tạo thành công kính hiển vi, nhờ kính hiển vi mà người ta nhìn thấy vi trùng, tinh trùng, tiểu cầu, từ đó mới thàng lập khoa vi trùng do Pierre Borel người pháp sáng lập và khoảng năm 1650, Marcello Malpighi người Italia thành lập khoa mô học.
Đến thế kỷ XVIII, người ta bắt đầu dùng những hiện tượng vật lý và hóa học để giải thích những thay đổi trong cơ thể con người, điều này là tiền đề để thấy tu Lazzaro Soallanzani người Italia khai trương môn sinh lý học hiện đại, tiếp đó Giambattista Morgagni người Italia sáng lập ra môn giải phẫu bệnh học.
Năm 1774, Joseph Priestley người Anh tách được Oxy trợ lực hô hấp. Vào thời kỳ này, y học bắt đầu tìm ra các liệu pháp chống các bệnh dịch động vật và các dịch bệnh đối với người. Người ta đã chống lại bệnh đậu mùa bằng cách truyền đậu mùa cho ngu7o2i khỏe tự đề kháng ( 1718).
Năm 1781, Jean Louis Boudelocqye, người Pháp viết chuyên luận đỡ đẻ. Cùng thời gian này Piere fauchard ngườii Pháp khai sinh khoa răng miệng với việc đưa răng giả vào thay răng hư, tiếp đó là phẫu thuật mắt, phẫu thuật thần kinh.
Đến thế kỷ XIX, Friedric Serturner người Đức tìm ra moocphin năm 1805, đến năm 1819, Rudolph Brondes tìm ra Atropin. Năm 1830, Johannes Muller, người Đức tìm ra Protein và đến năm 1833, Anselme Payen và Jean Francois, người Pháp tìm ra Enzym.
Năm 1800, hai người Pháp là Gaspard Laurent Bayle và The1phile Rene1 Laennec phát minh ra ống nghe.
Nhờ tiến bộ của môn hóa học phân tích đã thúc đẩy tiến bộ của Y học, năm 1905 đã tách được Moocphin, làm ra viên nén, viên trứng nạp vào âm hộ và trực tràng. Đến năm 1855, khoa bệnh học tế bào ra đời. Đến năm 1853 bắt đầu lưu hành ống tiêm để tiêm dưới da và tiêm vào tĩnh mạch. Nửa cuối thế kỷ 19, người Pháp và Đức hình thành khoa bệnh học tế bào và đến năm 1853, Guillaume Duchenne de Boulongne người Pháp phát monh ra môn điện y học. Năm 1895, William RontGen người Đức tìm ra tia X, đến năm 1898, hai vợ chồng Mariquyri, người Pháp tìm ra Radi.
Đến thế kỷ XX, Năm 1901, William Eithoven người Hà Lan tìm ra cách ghi điện đồ tim. Bác sỹ người Nhật là Jokichi Takemile tìm ra chất Ađrenalin. Đến năm 1906, Bác sỹ người Áo Clemens VonPirquet phát hiện ra dị ứng., và đến năm 1902 xuất hiện khái niệm Hooc mon do William Bayliss và Ernest Henry Starling tìm ra. Năm 1919, khái niêm Vitamin được bác sỹ Balan là Casimir Funk sử dụng để giải thích các bệnh do thiếu hụt Vi ta min như phù nề, bệnh hoại huyết, xuất huyết, thiếu máu…Tháng 4 năm 1921, Bác sỹ người Rumani là N.C Paulesco người Rumani tìm ra nguyên nhân đái đường là do Insulin. Năm 1929, Bác sỹ người Đức tìm ra phép điện não đồ.
Đến năm 1906, Paul Ehrlich người Đức khai sinh ra môn hóa học liệu pháp. Năm 1937, hai bác sỹ người Thụy sỹ là Hans Staub và Banet tìm ra cách chống Histamin - một amin kich thích sự tiết dịch và sự co động mạch.
Năm 1910, Bác sỹ người Pháp là Dominici phát minh ra liệu pháp Radi và liệu pháp tia X dùng chiếu xạ xuyên qua cơ thể điều trị ung thư.
Năm 1928, Bác sỹ người Anh là Alexandre FLEMING phát hiện ra Pinicilin, năm 1943, sản xuất công nghiệp các loại thuốc kháng sinh. Cùng thời gian này, Eduarard KENDALL người Mỹ và P.S Hensch người Thụy sỹ ta tìm ra Coctizon. Năm 1952, ra đời môn liệu pháp hóa học trị bệnh ung thư, kết hợp phẫu thuật với liệu pháp coban và liệu pháp tia X đồng vị. Đến năm 1980, phương pháp siêu âm ra đời.
Phương pháp chụp tia X lớp ( Tomographie) được Andre Bocage, người Pháp tạo ra để chụp hình cơ thể trên một mặt phẳng theo tầng lớp lựa chọn. Năm 1971, ra đời phương pháp chụp cắt lớp ( Scannographie) chụp các bộ phận của cơ thể bằng những tín hiệu điện tử.
TUỔI THỌ CỦA CÁC TỔNG THỐNG MỸ KHÔNG CAO
Trên thế giới này, có lẽ các vị tổng thống mỹ là những người được bảo vệ kỹ nhất, có chế độ chăm sóc y tế tốt nhất, với đội ngũ bác sỹ giỏi nhất thường xuyên chăm sóc sức khỏe, ấy vậy mà tuổi thọ của họ không cao. Trong số 38 vị tổng thống đã quy tiên có 4 người bị ám sát còn lại 34, trong đó có 15 người thọ ở độ tuổi từ 53 - 68, chỉ có 2 người sống đến 93 tuổi, 2 người 90 tuổi, 7 người chết vì bệnh ở độ tuổi trên dưới 60 khi đương chức, một vị tuy không bệnh, không bị ám sát mà chết ở độ tuổi 53. Riêng Tổng thống Frangklin D. Roosevelt làm tổng thống lâu nhất nhưng cũng lắm bệnh nhất, và chết trong lúc đương nhiệm vào năm 1972. Số liệu thống kê này nói lên một điều rằng không phải được chăm sóc y tế tốt nhất mà sống khỏe, sống lâu. Nếu biết cụ già việt nam gần 100 tuổi, hàng ngày vẫn đạp xích lô kiếm tiền nuôi vợ thì các bác sỹ Mỹ rất khó giải thích. xem tại đây: vnexpress.net/gl/xa-hoi/2010/12/3ba24577/
1. George Washington (22 tháng 2, 1732 – 14 tháng 12, 1799) là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địanăm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Với tư cách là người được quốc hội nhất trí chọn lựa làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797). Thứ năm ngày 12 tháng 12 năm 1799, Washington dành vài tiếng đồng hồ trên lưng ngựa để kiểm tra nông trại của mình bị tuyết rơi, mưa đá và mưa băng - đến chiều tối hôm đó, ông ngồi ăn buổi tối mà không có thay quần áo ướt. Sáng thứ sáu, ông tỉnh giấc thấy đau cổ họng dữ dội (có lẽ viêm họng hay đau thanh quản cấp tính) và cảm thấy càng thêm khan cổ. Vào khoảng 3 giờ sáng thứ bảy, ông đánh thức vợ ông và nói rằng ông cảm thấy bệnh trong người. Bệnh tình ngày thêm trầm trọng cho đến khi ông mất tại nhà vào khoảng 10h tối thứ bảy ngày 14 tháng 12 năm 1799,. Lời cuối cùng của ông là "'Tis well" (tạm hiểu là tốt lắm, tôi chết đau đớn nhưng tôi không sợ. Khắp thế giới, mọi người đều buồn bã vì cái chết của Washington. Napoleon ra lệnh 10 ngày tang lễ khắp nước Pháp; tại Hoa Kỳ, hàng ngàn người vận quần áo tang trong nhiều tháng. Để bảo mật sự riêng tư của họ, Martha Washington đốt hết các thư từ của ông bà viết cho nhau sau khi ông mất. Chỉ còn lại ba lá thứ giữa hai người vẫn tồn tại đến ngày nay, thọ 67 tuổi – chết bệnh
2. John Adams, Jr. (30 tháng 10 năm 1735 – 4 tháng 7 năm 1826 ) là Tổng thống thứ 2 của Hoa Kỳ (1797–1801). Ông thọ 90 tuổi.
3. Thomas Jefferson (1743–1826) là tổng thống thứ 3 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, người sáng lập ra Đảng Dân chủ–Cộng hòa Hoa Kỳ , thọ 83 tuổi.
4. James Madison (16 tháng 3 năm 1751 - 28 tháng 6 năm 1836) là một chính khách và là tổng thống thứ 4 của Hoa Kỳ, thọ 85 tuổi.
5. James Monroe (28 tháng 4 năm 1759 - 4 tháng 7 năm 1831) là tổng thống thứ 5 của Hoa Kỳ, thọ 72 tuổi.
6. John Quincy Adams (1767-1845) là tổng thống Hoa Kỳ thứ 6 (1826-1829), Ông thọ 80 tuổi.
7. Andrew Jackson (15 tháng 3 năm 1767 - 8 tháng 6 năm 1845) làtổng thống thứ 7, thọ 78 tuổi
8. Martin Van Buren ( ngày 5 tháng 12, 1782 – ngày 24 tháng 7, 1862) làtổng thống thứ 8, thọ 79 tuổi
9. William Henry Harrison (9 tháng 2 năm