0913 840 746
Thứ ba, ngày 19 tháng 03 năm 2024
TÌM KIẾM
TIN MỚI Y HỌC
80% BỆNH NHÂN UNG THƯ VN ĐẾN BỆNH VIỆN Ở GIAI ĐOẠN CUỐI
Mỗi năm VN có 200 ngàn bệnh nhân ung thư mới, 70 ngàn người bệnh ung thư tử vong. Trong đó, đến 80% bệnh nhân ung thư ở VN đến bệnh viện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Việt Nam có 160.000 ca ung thư/năm: Vì sao ăn bẩn, độc
Mỗi năm Việt Nam có từ 130 nghìn đến 160 nghìn trường hợp mắc mới, trong đó có khoảng 85 nghìn đến 115 nghìn người tử vong do căn bệnh này.
Công bố danh sách “làng ung thư”
Theo dự án Điều tra, tìm kiếm nguồn nước hợp vệ sinh phục vụ cấp nước sinh hoạt cho một số làng ung thư của VN, các nguồn nước ăn uống, sinh hoạt tại 37 làng ung thư đều ô nhiễm nặng.
Triclosan trong kem đánh răng Colgate: vạch trần hàm lượng nguy hiểm sức khỏe
Từ sau khi Triclosan được nhiều nghiên cứu khoa học công bố là làm tăng nguy cơ ung thư, nhiều hãng sản xuất hóa mỹ phẩm đã loại bỏ nó trong thành phần sản phẩm. Chất này bị cấm ở nhiều nước Âu Mỹ. Tại Việt Nam, Triclosan cũng không còn được sử dụng trong các sản phẩm kem đánh răng, trừ Colgate. Đáp lại mối lo ngại của người tiêu dùng, Bộ Y tế cho biết Triclosan được phép sử dụng nếu hàm lượng không vượt ngưỡng 0,3%.
Cung cấp thuốc kém chất lượng, công ty dược của Mỹ bị rút giấy phép
Ngoài việc bị rút giấy phép hoạt động, Công ty Ronbinson Pharma, Inc (Mỹ) phải nộp phạt 80 triệu đồng vì sản xuất thuốc kém chất lượng, trong đó có nhiều lô glucosamine
HOANG MANG VỚI VỎ THUỐC-GELATINE
Gelatin có trong mô liên kết, xương, da của động vật và là sản phẩm được sản xuất từ da heo, da bò. Từ da heo, bò, collagen được thủy phân hóa một phần để biến thành gelatin. Như vậy để bào chế thuốc là viên nang phải có vỏ nang được chế tạo từ nguyên liệu là gelatin. Và gelatin dùng trong ngành dược sản xuất thuốc phải là gelatin dược dụng.
Kem đánh răng nào ở VN có chất gây ung thư triclosan?
Khảo sát của Kiến Thức về các sản phẩm kem đánh răng hiện nay: đều ghi rõ thành phần, không ghi hàm lượng. Câu hỏi đặt ra: chất triclosan gây ung thư chiếm tỉ lệ bao nhiêu?
HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN

ĐƯỜNG DÂY NÓNG

0913 840 746

GĐ : NGUYỄN CÔNG KHUÔNG

[email protected]

TƯ VẤN TRAO ĐỔI

Phuongtd Thao

TƯ VẤN - HỖ TRỢ
THỐNG KÊ TRUY CẬP
3662
Đang online: 3
Truy cập hôm nay: 50
Truy cập hôm qua: 13
Truy cập trung bình: 3662
Tổng số truy cập: 3662
Your IP : 3.235.42.157
SẢN PHẨM : Riềng núi
Riềng núi

Riềng núi có tên khoa học là Alpinia galanga, được Châu Âu cho là “ gia vị của cuộc sống”, được cho là do Thượng đế ban cho để tránh bệnh, nó làm ấm các vùng trong cơ thể và bảo vệ tế bào, chống viêm. Làm tăng hồng cầu, lọc máu, tăng trọng lượng các cơ quan sinh dục, tăng sự di động và tăng số lượng tinh trùng.

 

 NƯỚC ÉP RIỀNG NÚI CÓ TÁC DỤNG

 

- Bổ dưỡng, giải độc, kháng khuẩn mạnh, chống nấm, long đờm, bảo vệ hệ hô hấp, giảm mệt, tăng sinh lực.
- Chống ung thư, chống viêm, kìm trực khuẩn lao.
- Chống: các bệnh đường hô hấp, viêm phế quản, long đờm.
- Chống: đau dạ dày, đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, dịch tả, trị giun.
- Trị bệnh: lách to, sốt rét, thấp khớp, phong hủi.
- Chống nhiễm khuẩn toàn thân, nhiễm khuẩn uốn ván.
- Trị các bệnh về da, nấm da, ngứa, chốc nở, mày đay, ghẻ cóc, nở loét đường sinh dục và miệng ( Herpes ).
- Kết hợp với Gừng, Bồ công anh thấp giúp chống vô sinh thứ phát.
 
THÀNH PHẦN, CÁCH DÙNG
 
Một chai nước ép Riềng núi có dung tích 250 mml, gồm dưới 40 % nước Riềng núi, nhỏ hơn 17 % đường thô, độ chua nhỏ hơn 4,6. nước tinh khiết vừa đủ.
Trước khi uống phải lắc đều, uống sau khi ăn sáng, vừa ngậm vừa uống.
1. Để bổ dưỡng, giải độc, kháng khuẩn mạnh, chống nấm, long đờm, bảo vệ hệ hô hấp, giảm mệt, tăng sinh lực. Uống mỗi ngày 1 chai.
2. Chống ung thư. Uống 5 loại nước ép Bồ công anh thấp, Riềng núi, Gừng, Trinh nữ hoàng cung, Mướp đắng ( ngày uống 3 trong 5 loại ) trong thời gian 5 tháng sẽ khỏi bệnh mà không đau đớn, tốn rất ít tiền so với điều trị bằng hóa chất, phóng xạ, nội tiết ( tốn vài trăm triệu )…..mà không phải chờ đợi do bệnh viện bị quá tải.
3. Chống viêm, kìm trực khuẩn lao. Uống mỗi ngày 1 chai Riềng núi, 1 chai Bồ công anh và ½ chai nước Gừng trong thời gian 2 tháng.
 4. Chống: các bệnh đường hô hấp, viêm phế quản, long đờm. Uống mỗi ngày 1 chai Riềng núi, 1 chai Bồ công anh thấp và 1 chai gừng trong thời gian 15 ngày. 
5. Chống: đau dạ dày. Uống mỗi ngày 1 chai Bồ công anh và 1 chai Riềng núi, hoặc 1 chai Bồ công anh và 1 chai Gừng.
6. Đau bụng, tiêu chảy. Uống mỗi lần 1 chai Riềng núi và ½ chai gừng, gày 2 lần.
7. Chống bệnh tả, trị giun. Uống mỗi ngày 1 chai Riềng núi và 1 chai Bồ công anh, uống trong 5 ngày.
8. Trị bệnh: lách to, sốt rét, thấp khớp, phong hủi. Uống mỗi ngày 1 chai Riềng núi, 1 chai Gừng và ½ chai Bồ công anh trong thời gian 40 ngày. Nếu Phong hủi phải uống 2 tháng.
9. Chống nhiễm khuẩn toàn thân, nhiễm khuẩn uốn ván. Mỗi ngày uống 1 chai Bồ công anh, 1 chai riềng trong 4 ngày.
10. Trị các bệnh về da, nấm da, ngứa, chốc nở, mày đay, ghẻ cóc, nở loét đường sinh dục và miệng ( Herpes ). Mỗi ngày uống 2 chai Riềng núi trong thời gian 20 ngày. đồng thời giã 100 gam gừng, 100 gam riềng núi hòa 2 lít nước ủ nơi bị bệnh hoặc hòa 2 lít nước để ngâm trong thời gian 30 phút ( làm 6 ngày, mỗi ngày 1 lần ). Nếu bị lichen phẳng thì làm như trên và uống thêm 1 chai Bồ công anh.
11. Khi Nam giới bị vô sinh thứ phát ( tinh trùng yếu, ít ) thì uống mỗi ngày 2 chai Riềng núi, 1 chai Bồ công anh và 1 chai Gừng trong thời gian 3 tháng.
12. Trường hợp sức khòe bình thường nhưng sinh lý yếu, chỉ cần mỗi ngày 2 chai riềng núi, tối 1 chai Gừng, bạn có thể làm việc liên tục cả tuần, cả tháng, mỗi ngày 1 lần, muốn mỗi ngày 2 lần thì uống thêm 1 chai nước gừng.
Thơ về Riềng núi của Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông 
"Cao Lương Khương là củ Riềng ấm,
Khí vị cay lành không độc lắm,
Phong tê, khí khối, tửu ly. lâu,
Vị lạnh tích khí chớ để chậm"
 
RIÊNG NẾP
 
Danh pháp khoa học: Alpinia galanga (L.) Willd.
Tên đồng nghĩa: Languas galanga (L.) Stuntz, Alpinia pyramidata Blume
Tên khác: Riềng ấm, hậu khá ( Thái), chi bộ (H’Mông)
Tên nước ngoài: Greater galangal (Anh), grand galanga (Pháp).
Họ: Gừng (Zingiberaceae).
 
Mô tả.

Cây thảo, cao khoảng 2m hoặc hơn. Thân rễ to, đường kính 2- 3cm, màu hồng nhạt. Lá mọc so le, xếp thành 2 dãy đều, hình mũi mác, dài 35- 40cm, rộng 5- 7cm, gốc thót lại, đầu thuôn nhọn , mép có viền trắng, 2 mặt nhẵn, mặt trên bóng; cuống lá hầu như không có, lưỡi bẹ tròn, nguyên.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành thuỳ phân rất nhiều nhánh; lá bắc hình mác dễ rụng, lá bắc con hình dải; hoa màu trắng có vạch hồng; dài hình ống, có 3 răng; tràng hình ống, có cánh lõm, cánh môi hình dải- trái xoan, có móng hẹp, chia thành 2 thuỳ ở đầu; nhị lép hình giùi; bầu có lông.
Quả mọng, hình cầu, khi chín màu đỏ nâu, chứa 3- 5 hạt bóng.
Mùa hoa quả: tháng 5- 7.

Bộ phận dùng.

Thân rễ thu hái vào mùa xuân.
Quả chín thu hái vào mùa thu, phơi khô.

Thành phần hoá học:

Quả riềng nếp chứa các chất 1’acetoxychavicol acetat (I) và 1’acetoxy eugenol acetat (I) và II có hoạt tính chống viêm (CA. 109, 1988, 134876).
Hạt chữa các chất flavonoid được xác định là quercetin, kaempferol, quercetin 3 methy ester, isorhamnetin, kaempfrid, galangin và dẫn chất 3 methylerther của galangin (Planta Med 1972, 22, 145); 1’acetoxychavicol acetat (I) và 1’acetoxy eugenol acetat (II) cùng với caryophylen oxid, caryophylenol, pentadecan, 7 heptadecen (CA.1974, 81, 68544 h; Chem pharm Bull. 1976, 24, 2377)
Hai chất diterpen có tác dụng chống nấm và tác dụng độc với tế bào (cytotoxic) có tên là galanan A và galanan B cùng với 3 chất diterpen loại labdan có tên là galanolacton (III), (E) 8β (17)12 – labdinen- 15- 16- dial (IV) và (E) 8- β (17) epoxylabd- 12 en- 15,16 dial (V) cũng được tách từ hạt và xác định cấu trúc. (CA. 109, 1998,89739 n).
Rễ và lá chứa tinh dầu với các thành phần chính là myrcen 94,51% ở rễ và 52,34% ở lá (CA.1993,118,154117k; J Essentoil 1992, 4,81). Mori Kikedi, Kubota Kikue đã tách từ rễ riềng nếp 16 hợp chất chứa oxy đã được xác định là 1’acetoxy chavicol acetat; 1,8 cineol, linalool; geranyl acetat, eugenol, chovicol acetat. Ngoài ra còn bornyl acetat, citronellyl acetat, 2 acetocy 1- 8 cineol, methy eugenol, tinh dầu có 1- 8 cineol và các hợp chất phenolic cao có ảnh hưởng lớn đến mùi thơm của tinh dầu. Rễ riềng nếp còn chứa các men ức chế xanthin oxydase (inhibitors of xanthine oxydase) gồm trán- p- coumarin diacetat; trans coniferyl diacetat [1’S]- 1’- acetochavicol acetat; [1’S] 1- acetoxy eugenol acetat và 4 hydroxy benzaldehyd. (CA.108,1988,218100 C).
Một số hợp chất có tác dụng chống u (antitamor) cũng được phân lập từ riềng nếp, các hợp chất (VI) đồng phân (15α và 15β) và VII đã được sử dụng như là chất chống u (CA.110,1989, 219069 c).
Chất diterpen có tác dụng kháng khuẩn từ riềng nếp là (E)- 18β- 17 epoxylabd- 12 en, 15, 16 dial, chất này còn làm tăng hoạt tính chống nấm candida ambicans của quercetin và chalcon (CA. 125, 1996, 292 392 s).

Tác dụng dược lý:

Trong thử nghiệm in vitro và vivo, tinh dầu từ thân rễ riềng nếp tươi và khô đều biểu lộ hoạt tính kháng khuẩn, kháng nấm, kháng động vật nguyên sinh, trừ sâu và long đờm mạnh. Cao nước, cồn hoặc ether thân rễ có hoạt tính kháng khuấn mạnh trên Bacillus subtilis, Escherichia coli, Staphylococcus aureus, Streptcocus hemolytcus và Pseudomonas aeruginosa. Cao cồn và cloroform có hoạt tính kháng nấm trên Candida albicans, Cryptococcus neoformans, Epidermophyton floccosum, Microsporum gypseum, Trichophyton mentagrophytes, T. concentrium, T. rubrum, Aspergillus niger, Penicillium expansum và Rhizopus stolonifer, với nồng độ ức chế thấp nhất là 50- 250μg/ml. Tinh dầu từ thân rễ có hoạt tính kìm trực khuẩn lao với nồng độ 25μg/ml. LD50 của tinh dầu tiêm phúc mạc chuột lang là 0,68 ml/kg.

Cao thân rễ riềng nếp (0,01- 0,10%) cho vào thịt bò sống xay làm tăng tính ổn định về oxy hoá, nồng độ cao còn làm tăng thời hạn sử dụng của thịt bò xay. Hoạt chất 1’-acetoxychavicol acetat có tác dụng chống ung thư mạnh in vitro và in vivo , chống u báng Sarcoma 180 ở chuột nhắt trắng, ức chế phát triển u ruột kết gây bởi azoxymethan ở tế bào người, ức chế sự gây ung thư nội sinh gan chuột cống trắng. Những hoạt chất khác có khả năng chống ung thư là 1’-acetoxy- eugenol- trans- cinnamat và ethy 4- methoxy- trans- cinnamat. Cao methanol thân rễ ức chế mạnh tác dụng gây đột biến của 3- amino- 1,4- dimethy- 5H pyrido [4,3- β] indol ở Samonella typhimurium TA 98.

Cao ethanol thân rễ cho uống với liều 500mg/kg và các dẫn chất chavicol tiêm phúc mạc với liều 1- 10mg/kg có hoạt tính chống loét dạ dày gây bởi thắt môn vị và ức chế sự tiết dịch vị ở chuột cống trắng và có hoạt tính bảo vệ tế bào. Bột thân rễ có hoạt tính ở mức trung bình ức chế sự tạo sỏi niệu oxalat ở chuột cống đực. Trong thử nghiệm về độc tính uống cấp tính (24h) với liều 0,5- 3g/kg, và độc tính mãn tính (90 ngày) với liều 100mg/kg/ngày trên chuột nhắt trắng, cao ethanol đã có hoạt tính làm tăng thể trọng, tăng lượng hồng cầu, tăng trọng lượng các cơ quan sinh dục, tăng sự di động và số lượng tinh trùng so với chuột đối chứng, và không có tác dụng độc với tinh trùng. Trong thử nghiệm in vitro, cao thân rễ có tác dụng ổn định màng hồng cầu cừu chống lại tác động của môi trường nhược trương và nhiệt. Màng hồng cầu giống màng thể tiêu bào; các glucocorticoid và thuốc tương tự aspirin có tác dụng ổn định thể tiêu bào, tác dụng này là một trong những cơ chế chủ yếu chống viêm.

Tính vị, công năng.

Riềng nếp có vị cay, tính ôn, vào hai kinh tỳ và vị, có tác dụng ôn trung, tán hàn, hết đau, tiêu thực.

Công dụng:

Riềng nếp được dùng như riềng ấm chữa đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, lỵ và phối hợp với than tóc rối uống chữa ngộ độc thịt cóc. Riềng nếp muối dùng một nhúm ngậm, cắn nhẹ và nuốt dần dần làm khỏi khát, đỡ mệt khi làm việc mệt nhọc hoặc đi nắng nhiều khát nước.
Thân rễ riềng nếp được ghi trong dược điển nhiều nước châu Âu, và được dùng rộng rãi trong y học cổ truyền trị bệnh da, bệnh hô hấp, làm thuốc lợi tiêu hoá sau khi đẻ, khó tiêu, đầy hơi, cơn đau bụng, lỵ, ung thư miệng và dạ dày, nhiễm khuẫn toàn thân, bệnh dịch tả và làm thuốc long đờm. Ở Trung Quốc, Lào và Campuchia, thân rễ được uống chống co giật, gây trung tiện và long đờm, trị lỵ, trị viêm phế quản, và dùng ngoài trị thấp khớp. Ở Thái Lan, thân rễ được dùng trị nhiều bệnh, làm thuốc lọc máu, trị khó tiêu, dụng dập, tiêu chảy, nhiễm khuẩn uốn ván, sốt rét mãn tính, bệnh tê phù, ghẻ cóc, đau dạ dày, bệnh dịch tả, ngứa, nấm da, bệnh da, chốc lở, mày đay, đau răng, trị giun, chống co thắt, gây trung tiện, đầy hơi.
Ở Philippin, thân rễ được dùng gây trung tiện, kích thích, và nước sắc lá dùng làm nước tắm trị thấp khớp. Ở Indonesia, thân rễ nạo nhỏ trộn với ít muối uống lúc đói trị lách to, và nước ngâm thân rễ uống trị bệnh phong. Ở Malaysia, hạt được dùng trị cơn đau bụng, tiêu chảy, nôn và bệnh herpes, nước hãm lá dùng cho phụ nữ uống sau khi đẻ. Trong y học dân gian Ấn Độ, thân rễ dùng trị đầy hơi, khó tiêu, thấp khớp và bệnh viêm xổ, đặc biệt trong viêm xổ phế quản, và cùng với hồ tiêu và gừng trị sốt. Cao lá dùng bôi trị ngứa và bệnh dị ứng da. Thân rễ riềng nếp là thuốc kích dục của người Ả Rập Xê Út, phối hợp với 3 dược liệu khác chữa viêm khớp dạng thấp ở Cô Oét.
 
     Trích: " Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam" - Nhà xuất bản Khoa Học và Kỹ Thuật
Sản Phẩm Khác
Thiết kế website chất lượng cao NAM VIỆT IT